Đền Bà Men

Đền Bà Men là một địa điểm tâm linh linh thiêng của ngư dân trên vịnh Hạ Long và đảo Cát Bà, nằm trên một bãi cát rộng ven chân đảo Đầu Bê (khu vực vùng nước giáp ranh giữa Hạ Long và Vịnh Lan Hạ, Cát Bà (Hải Phòng). Đền được tỉnh Quảng Ninh đưa vào danh sách di sản cấp tỉnh vào năm 2015, và khu vực này nằm trong vùng bảo vệ tuyệt đối của di sản Vịnh Hạ Long.

Nguồn gốc của Đền Bà Men

Đền Bà Men còn có thên gọi khác là Đức Chúa Bà, có lịch sử trên 200 năm, được xây dựng để thờ phụng một trong 6 người phụ nữ bị chết đuối khi đi trên một chiếc bè. Theo truyền thuyết, vào năm 1818, có 9 người phụ nữ từ làng Vạn Yên (nay thuộc huyện Vân Đồn) đi trên một chiếc bè để bán hàng ở các hòn đảo. Trên đường đi, họ gặp phải cơn bão lớn và bè bị lật úp, những cơn sóng đã cuốn cả người và thuyền ra biển. Những người phụ nữ này được cho là “thác” vào giờ thiêng, thi thể của họ được dòng nước trôi vào các khu vực tại đảo tại vùng biển Vịnh Hạ Long và Cát Bà và được người dân mai táng và dựng miếu thờ ở 6 nơi. Trong đó người phụ nữ lớn tuổi nhất có tên là Men, thi thể được sóng đánh vào khu vực tại đảo Đầu Bê đã được người dân lập miếu và suy tôn là nữ thần bảo hộ cho ngư dân đi biển. 

Đền Bà Men
Đền Bà Men

Đền Bà Men cách cảng tàu Tuần Châu khoảng 25km, để đến được đây bạn phải mua vé tham quan Vịnh Hạ Long tuyến 3 và đặt tàu riêng (do tuyến này không có tàu ghép) hoặc nếu có thời gian bạn nên đặt du thuyên nghỉ đêm để có thể tham quan thoải mái hơn. Thời gian di chuyển từ cảng tới đảo Đầu Bê khoảng 2h – 2h30 nếu bạn đi tàu riêng, và thường tới đây vào ngày thứ 2 trong hải trình nếu bạn đi du thuyền nghỉ đêm. Khi đến đảo bạn có thể tiếp tục bắt xe điện để di chuyển tới đề Bà Men.

Kiến trúc của đền Bà Men

Đền hiện nay có kiến trúc theo hình chữ T, có chiều dài 70m, chiều ngang 20m, mặt đền hướng ra một vụng nước kín gió. Trong đền có tượng bà Men và các vị “Nữ thần”, “Mẫu thần”, “Thuỷ thần” thuộc tín ngưỡng thờ thần của người Việt, về sau mới có sự phát triển thêm với việc kết hợp thờ Phật. Trước năm 1983, đền chỉ là một ngôi miếu lợp cỏ tranh nằm sát chân núi, bên trong có một tượng phụ nữ kích thước khoảng 40cm, đầu vấn khăn vàng nhạt, phía trước tượng có một bát hương sứ. Phía sau núi có một ngôi mộ của bà Men vẫn ở nguyên vị trí qua các lần sửa chữa xây dựng đền. Đền đã được ngư dân trong vùng trùng tu nhiều lần vào các năm: 1983, 1987, 2006 và trùng tu, tôn tạo lớn vào năm 2018.

Khu thờ tại đền Bà Men
Khu thờ tại đền Bà Men

Năm 2015, đền đã được công nhận là di tích lịch sử – văn hóa và danh lam thắng cảnh tỉnh Quảng Ninh. Đền Bà Men là một điểm du lịch hấp dẫn cho du khách muốn tìm hiểu về văn hóa và tín ngưỡng của người dân nơi đây. Đền Bà Men không chỉ là nơi thờ cúng bà Men, mà còn là nơi tổ chức các hoạt động văn hoá, tâm linh như lễ hội bà Men vào ngày 15 tháng Giêng âm lịch hàng năm, lễ hội cá ông vào ngày 16 tháng Giêng âm lịch hàng năm và các buổi ca trù vào các dịp lễ tết. Đền Bà Men là một biểu tượng của sự gắn bó với biển của người dân Quảng Ninh.

Lễ hội tại đền Bà Men

Lễ hội đền Bà Men được tổ chức vào hai ngày 19 và 20 tháng Giêng âm lịch, là thời điểm giao mùa xuân hạ, khi ngư dân chuẩn bị ra khơi sau một thời gian nghỉ ngơi. Lễ hội có hai phần chính: phần lễ và phần hội.

Phần lễ là các nghi thức tế lễ, dâng hương hoa lễ vật lên đền, cầu mong một năm mới mưa thuận gió hoà, trời yên biển lặng, làm ăn phát đạt và tạ ơn Bà Men đã che chở, phù hộ trong suốt năm qua. Phần lễ bắt đầu từ sáng sớm ngày 19 tháng Giêng, khi các lá chài trên vịnh Hạ Long và đảo Cát Bà cùng nhau kéo chải ra biển để chuẩn bị cho cuộc thi đua chải. Sau khi kéo chải xong, các lá chài lại quay về bến cảng để chuẩn bị cho buổi lễ tế lễ. Buổi tế lễ được tổ chức trang trọng và long trọng, có sự tham gia của các cơ quan chính quyền địa phương, các nhà sư, các nhà văn hoá và các nhóm biểu diễn nghệ thuật. Buổi lễ tế lễ được tiến hành theo nghi thức của Phật giáo và Đạo giáo, có sự kết hợp giữa các tôn giáo khác nhau.Sau khi cúng rước xong, các lá chài lại quay về đền để tiếp tục buổi lễ tế lễ. Buổi lễ tế lễ kết thúc vào chiều tối ngày 19 tháng Giêng, khi các lá chài lại kéo chải ra biển để chuẩn bị cho cuộc thi đua chải vào ngày hôm sau.

Thông thường có 4 đội chải tham dự tuy nhiên đôi khi chi có 2 đội (do các làng chài khác không đủ quân số)
Thông thường có 4 đội chải tham dự tuy nhiên đôi khi chi có 2 đội (do các làng chài khác không đủ quân số)

Phần hội là các hoạt động vui chơi giải trí, giao lưu văn hóa, trong đó có cuộc thi đua chải giữa các làng chài trên vịnh. Đây là một cuộc thi gay cấn và hấp dẫn, bởi theo quan niệm của ngư dân, làng nào giành chiến thắng trong đua chải thì năm ấy người dân trong làng sẽ gặp nhiều may mắn khi đi biển. Cuộc thi đua chải được tổ chức vào sáng sớm ngày 20 tháng Giêng, khi mặt trời mới ló dạng. Theo lệ mọi năm, tham gia cuộc thi gồm có 4 đội chải gồm Cống Đầm – Vung Viêng, Cửa Vạn, Hà Nam (hồ Ba Hầm) và Cao Minh (Cát Bà). Mỗi chải gồm 14 tay chèo và 1 người cầm lái. Đường đua dài khoảng 500m, điểm xuất phát từ trước cửa đền. Các chải sẽ đua 2 vòng, chải nào về đích trước sẽ thắng.

Các đội chải được kéo bởi những người đàn ông mạnh mẽ và khỏe khoắn, trong khi hai bên đường đua, cổ động viên của hai đội đứng trên các tàu, thuyền phất cờ, đánh trống hò reo vang động. Các đội chải được kéo từ bờ biển ra giữa vịnh Hạ Long, rồi quay lại bờ biển. Đội chải nào quay lại bờ biển trước tiên sẽ giành chiến thắng. Cuộc thi đua chải diễn ra trong không khí sôi nổi và náo nhiệt, có sự cổ vũ của hàng ngàn người dân và du khách. Cuộc thi đua chải kết thúc vào khoảng 10 giờ sáng ngày 20 tháng Giêng, khi đội chải chiến thắng được xác định. Lễ trao giải diễn ra ngay tại sân đình và trao 4 triệu đồng cho đội thắng, 3 triệu đồng cho đội thua. Các “chèo thủ” hai đội cũng bắt tay nhau vui vẻ, hẹn đến mùa hội sang năm đua tài.

Trả lời