Đình Quan Lạn ngôi đình cổ trên đảo Quan Lạn và là di tích quan trọng trong quần thể di tích thương cảng Vân Đồn cổ, là điểm tựa tâm linh cho người dân trên đảo. Đình được xây dựng vào thời Hậu Lê, những nét kiến trúc hoa văn trạm khắc lại là sự kiến hợp hài hòa. Đình là nơi thờ Thành Hoàng của các làng, đồng thời cũng là nơi hội họp bàn việc của dân làng. Tuy nhiên điều đặc biệt về kiến trúc cuẩ ngôi đình này, chính là các trạm khắc hình rồng phong phú tinh xảo thể hiện cả dáng giấc con rồng thời lý- trần – nguyễn vậy tại sao lại có sự đặc biệt như vậy ở ngôi đình này?
Giới thiệu về Đình Quan Lạn
Đình Quan Lạn được xây dựng lần đầu vào thời Hậu Lê, thế kỷ XVII trên bến Cái Làng vốn là trung tâm của thương cảng cổ Vân Đồn. Đây vốn là trung tâm của con đường tơ lụa đầu tiên trên đất nước ta, kết nối đại việt tới các nước xa xôi khác. Sau bảy thế kỷ phát triển hưng thịnh, thương cảng Vân Đồn đã đánh mất vài trò của mình do việc thông thương mua bán đã được phép đi sâu vào khu vực nội địa. Chính vì vậy người dân Cái Làng đã chuyển chỗ đổi nghề và ngôi đình cũng được di chuyển và xây mới.

Sau đó, vào thời Nguyễn năm Thành Thái thứ 12 (năm 1890-1900), ngôi đình được chuyển về thôn Đoài như hiện nay và mang tên Đình Quan Lạn 2. Vị trí của đình lúc này được xem là đắc địa với “Tiền Tam thai, hậu Ngũ nhạc” tức phía mặt tiền có ba ngọn núi (Sao Trong, Sao Ngoài, Sao Ơn) và phía sau lưng là năm ngọn núi (núi Liệu) tạo nên bức bình phong tự nhiên, vững chắc mà hiếm nơi nào có được.
Một trong những điểm tạo nên sự khác biệt cho đình Quan Lạn khác với các đình khác là trong khi các nơi khác thì thờ Thần Hoàng, bản Thổ thì đình Quan Lạn lại thờ vua. Vị vua ở đây chính là Lý Anh Tông – người có công lập ra thương cảng Vân Đồn năm 1149, vì vậy dân làng nơi đây tôn ngài vừa là vua vừa là Thành Hoàng bản thổ vùng đất này. Đình Quan Lạn không chỉ thờ vua mà con thờ tướng Trần Khánh Dư – người có công trấn ải Vân Đồn, lập công lớn trong trận đánh thuyền lương giặc Nguyên Mông. Ngoài ra Đình còn thờ cả Dương Không Lộ và “Tứ vị Thánh nương” là những vị thần được truyền tụng thường che chở cho những người đi biển.

Đình có kiến trúc gồm một bái đường nối với hậu cung bởi ba gian ống muống, Trên nóc đình có hình lưỡng long chầu nguyệt, các đầu đao uốn cong, phía trước đình đắp bốn chữ nổi “Quốc thịnh dân hưng”, thể hiện ước vọng của người dân trong vùng. Bên trong đình được chạm khắc công phu, tỉ mỷ và rất độc đáo tạo thành bức tranh nghệ thuật hoành tráng. Đặc biệt, các đầu bẩy đều chạm khắc đầu rồng, mỗi một đầu rồng lại có sự khác nhau. Sàn đình được làm bằng gỗ, kiểu kiến trúc này chỉ có ở đình Bảng (Bắc Ninh), và đình Trà Cổ (Móng Cái). Theo lời kể của trưởng lão, thì trong đình xưa kia còn có bức Quan Tằm, tức tượng trưng cho người phụ nữ trồng dâu nuôi tằm và một bức tượng là Quan Vỡ Bụng, tượng trung cho người nam giới xưa kia đi biển đánh bắt hải sản.

Ngoài ra, toàn bộ cấu trúc của đình được đỡ bằng 32 cột cái, 26 cột quân, trong đó cột to nhất có chu vi lên đến 3.2m. Đặc biệt hơn là các cột đình được làm bằng loại gỗ Mần Lái – một loại gỗ được mệnh danh là siêu tứ thiết, ngàn năm cũng không bị rỗng, tiêu tâm như gỗ Lim. Có lẽ đây là ngôi đình duy nhất ở Việt Nam sử dụng loại gỗ quý hiếm chỉ mọc trên các núi đá, áng đá cheo leo hiểm trở ngoài biển khơi chi có ở vùng đảo Hải Vân. Với những cột gỗ này, đình Quan Lạn không chỉ xứng đáng được xếp vào những công trình gỗ truyền thống, quy mô và đồ sộ của Việt Nam, mà còn là công trình độc nhất vô nhị, một vật báu quốc gia. Có thể thấy có rất nhiều điều đặc biệt khi nói về kiến trúc của ngôi đình này.
Đình Không chỉ có giá trị về quy mô kiến trúc, lịch sử mà còn là trung tâm tín ngưỡng của cư dân vân đồn suốt nhiều thế kỷ nay. Ngôi đình mang trong mình nhiều điều đặc biệt mà mỗi cư dân trên đảo đều rất tự hào. Hiện tại đình còn lưu giữ được 18 sắc phong từ đời vua Thiệu Trị năm thứ nhất (1841) đến đời Bảo Đại, trong đó ghi rõ công trạng của các vị tiên liệt.
Các công trình kiến trúc khác gần đình Quan Lạn
Với vẻ đẹp của một công trình kiến trúc cổ nổi tiếng, có lẽ mỗi du khách khi đến Quan Lạn đều không thể bỏ qua tham quan ngôi đình cổ này. Kế bên trái đình là chùa Quan Lạn. Đây là một ngôi chùa cổ xưa, được xây dựng vào thế kỷ XVII. Chùa có kiến trúc đơn giản nhưng uy nghi, gồm hai gian chính và hai gian phụ. Trong chùa có nhiều bức tranh và tượng Phật được trang trí màu sắc sinh động. Chùa Quan Lạn là nơi tu hành và tụng kinh của các tăng ni trên đảo, cũng như là nơi du khách tham quan và cầu nguyện.

Kế bên trái chùa là miếu Quan Lạn thờ 3 anh em họ Phạm có công đánh quân Nguyên Mông. Đây là ba anh em Phạm Ngũ Lão, Phạm Ngũ Chiêu và Phạm Ngũ Đồng, là những danh tướng của triều Trần trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông. Họ đã có công lớn trong việc bảo vệ biên cương phía bắc và phía đông của nước nhà. Miếu Quan Lạn được xây dựng để tưởng nhớ và biết ơn các anh hùng dân tộc này.
Cách Đình Quan Lạn khoảng 1 km là Nghè Quan Lạn thờ Trần Khánh Dư – danh tướng nổi tiếng của triều Trần. Trần Khánh Dư (1228 – 1300) là một trong những chỉ huy quân sự xuất sắc nhất của triều Trần trong ba cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Ông được mệnh danh là “Võ Tướng Hải Ngoại” hay “Thủy Quân Đại Tướng Quân” vì có nhiều chiến công trên biển. Nghè Quan Lạn được xây dựng để tôn vinh và thờ cúng ông. Ngày 14 tháng 7 năm 1990, quần thể Đình – Chùa – Miếu – Nghè Quan Lạn được công nhận Di tích Lịch sử – Văn hoá cấp quốc gia.
Lễ hội tại đình Quan Lạn
Lễ “Khóa làng” và “cải tịch” là hai hoạt động văn hóa và tín ngưỡng quan trọng của người dân Quan Lạn, được diễn ra trong khuôn khổ lễ hội đình Quan Lạn từ ngày 10 đến 20 tháng 6 âm lịch hàng năm. Lễ hội này nhằm tưởng nhớ chiến thắng Vân Đồn trên dòng sông Mang vào năm 1288, khi quân Trần do Trần Khánh Dư chỉ huy đã tiêu diệt đội thuyền lương của quân Nguyên Mông, góp phần vào đại thắng Bạch Đằng của dân tộc.

Lễ “Khóa làng” có nghĩa là cấm người dân ra khỏi làng trong thời gian diễn ra lễ hội, để tập trung cho việc thờ cúng và tham gia các hoạt động văn nghệ, thể thao. Lễ “Khóa làng” được tiến hành vào sáng ngày 10 tháng 6 âm lịch, bằng cách treo cờ hội trên cổng đình. Cờ hội có màu đỏ, biểu tượng cho sự nhiệt huyết và anh dũng của người dân Quan Lạn. Người dân phải tuân theo quy định không được ra khỏi làng, trừ khi có việc gấp hoặc có sự cho phép của ban tổ chức. Nếu ai vi phạm quy định này sẽ bị phạt tiền hoặc bị trục xuất khỏi làng. Mục đích của lễ “Khóa làng” là để giữ gìn sự trong sạch và trang nghiêm của lễ hội, cũng như để người dân có cơ hội giao lưu và gắn kết với nhau.
Lễ “Cải tịch” có nghĩa là thay áo mới cho các vị thần được thờ trong đình, để biểu hiện lòng kính trọng và mong muốn được ban phước lộc. Lễ “Cải tịch” được tiến hành vào trưa ngày 10 tháng 6 âm lịch, sau khi xong lễ cúng Thành Hoàng. Thành Hoàng là vị thần bảo hộ cho làng xã, được nhận dạng với Trần Khánh Dư – một tướng lĩnh xuất sắc của triều Trần. Các vị thần được thay áo mới gồm có: vua Lý Anh Tông, tướng Trần Khánh Dư và tướng Phạm Công Chính. Các vị này đều có công lớn trong việc bảo vệ biên cương phía bắc và phía đông của nước nhà trước quân xâm lược Nguyên Mông vào thế kỉ XIII. Các bức tượng của các vị thần được mang ra khỏi đình, rửa sạch và mặc áo mới do các gia đình trong làng may mặc. Áo mới được may bằng vải gấm, có màu xanh lá cây hoặc xanh dương, biểu tượng cho sự thanh khiết và uy nghi của các vị thần. Sau đó, các bức tượng được mang trở lại đình và tiếp tục được thờ cúng.Lễ “Khóa làng” và “Cải tịch” là những hoạt động mang ý nghĩa cao đẹp, phản ánh sự gắn bó và tôn kính của người dân Quan Lạn đối với các vị tiên nhân, cũng như sự đoàn kết và tuân theo quy luật của cộng đồng.
Ngoài các lễ hội trên, tại Đình Quan Lạn còn có các hoạt động sinh hoạt cộng đồng như: ca trù, chèo, tuồng… được tổ chức vào các dịp lễ tết hoặc cuối tuần. Đây là những hoạt động góp phần giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa của người dân Quan Lạn.

5 thế kỷ trôi qua, với nhiều lần di chuyển xong, đình Quan Lạn vẫn giữ được những giá trị kiến trúc độc đáo và hiên ngang trụ vững trước sóng gió biển khơi. Điều đó cho thấy sức sáng tạo tuyệt vời và sự kỳ công bảo vệ di sản của cha ông, cộng đồng dân cư vùng biển đảo Quan Lạn tỉnh Quảng Ninh. Cùng với giá trị vật thể, đình Quan Lạn còn là nơi nuôi dưỡng các giá trị tinh thần cho mọi thế hệ như tinh thần thượng võ chống giặc ngoại xâm bảo vệ biển đảo thân yêu, tinh thần lao động cần cù đánh bắt thủy sản làm giàu cho quê hương đất nước. Đình Quan Lạn không chỉ là một văn hóa làng xã mà còn là mốc văn hóa trường tồn góp phần khẳng định chủ quyền biển đảo muôn đời của dân tộc Việt Nam.
Bài viết liên quan
Đảo bánh sữa
Giới thiệu chung về đảo Bánh Sữa Đảo Bánh Sữa (thuộc xã Bản Sen) là...
Th9
𝐁𝐀𝐘 𝐙𝐎𝐍𝐄 HẠ LONG- BIỂU TƯỢNG “ĂN – CHƠI – CHILL
𝐁𝐀𝐘 𝐙𝐎𝐍𝐄 – BIỂU TƯỢNG “ĂN – CHƠI – CHILL” MỚI ĐẬM CHẤT THỜI THƯỢNG...
Th7
LOVE IN THE BAY #9: HẸN HÒ CÙNG BẰNG KIỀU VÀ BẢO TRÂM
Bạn đang tìm kiếm một trải nghiệm hẹn hò lãng mạn và độc đáo? Bạn...
Th7
[Review] công viên nước Hà Lan
Công viên nước Hà Lan Quảng Ninh là một khu du lịch sinh thái, góp...
Th7
Tàu cao tốc đi Cô Tô (giá vé & lịch trình)
Để có một chuyến đi Cô Tô hoàn hảo, bạn cần chọn một phương tiện...
Th7
Chùa Hoa Yên (chùa Cả)
Chùa Hoa Yên tọa lạc tại độ cao 535m so với mực nước biển, đây...
Th7