Nhà thờ Trà Cổ là một công trình tôn giáo đẹp và lâu đời, nằm ở phường Trà Cổ, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh. Nhà thờ có lích sử hơn 80 năm và được xây dựng theo phong cách kiến trúc Gothic, với nhiều mái vòm nhọn, tháp chuông cao vút và hoa văn điêu khắc trên gỗ. Cùng với bãi biển Trà Cổ, mũi Sa Vĩ… Nhà thờ Trà Cổ đã trở thành một điểm đến không thể thiếu đối với du khách khi tới vùng địa đầu Tổ quốc.
Trong số những cư dân chuyến đến sinh sống ở đảo Trà Cổ, có một nhóm nhỏ người dân thuộc tín hữu công giáo. Trong thời gian này, đạo công giáo tại Trà Cổ hoạt động khá đơn giản, các tín đồ chủ yếu tập hợp thành các nhóm nhỏ hoạt động trên ghe thuyền với thanh viên chú yếu là gia đình và bạn bè. Những năm đầu, các tín hữu này chủ yếu là giữ đạo nội tâm nên việc tập trung là rất hiếm hoi. Thời gian này cứ khoảng 3 hay 4 năm mới có một Cha đến thăm viếng và ban các bí tích cho họ. Thời đó phương tiện đi lại rất khó khăn nên việc mở mang đạo Chúa cũng rất hạn chế.
Mãi cho đến năm 1857, giáo xứ Trà Cổ mới chính thức được xây dựng và hình thành. Tại thời điểm này, Cha già Cấp (linh mục đầu tiên của giáo xứ Trà Cổ) đã làm một việc có ý nghĩa rất quan trọng cho con dân Trà Cổ. Đó là ngài quyết định đem xứ từ Trúc Sơn về làng Tra Cổ và thành lập giáo xứ tại đây. Sau đó Ngài cho di dân đến khu Đòng Nhãn (Đông Thịnh) và dựng nhà thờ đẻ cho con dân tín hữu Trà Cổ tụ họp lo việc phụng sự kính mến Chúa. Nhà thờ lúc này được xây bằng gỗ lấy ở rừng làng và được trang bị hai qủa chuông nam và hai cái trống đại lược.
Nhưng đến năm 1860, vua Tự Đức lại ban chiếu chỉ cấm đạo trên toàn quốc, khiến các giáo hữu phải tháo dỡ nhà thờ xuống. Năm 1962, khi tình hình tạm yên ổn, Cha già Cấp mới cho di chuyển lên xóm Tràng Lộ (còn gọi là Gót) và cho dựng ở đó một nhà thờ bằng gỗ bảy gian để thay thế cho nhà thờ cũ bị tháo gỡ.
Đến năm 1861, ở miền duyên hải bắc bộ, xuất hiện Tạ Văn Phụng tự xưng là Lê Duy Minh, thuộc dòng dõi nhà Le và tự nhận bản thân là minh chủ nổi lên ở Quảng Ninh và chiếm phủ Hải Ninh. Đến tháng 3 năm 1862, Nguyễn Văn Thịnh (còn gọi là Cai Tổng Vàng ) ra nhập với Tạ Văn Phụng chống lại Triều Đình vây đánh thành Bắc Ninh. Nhiều gia đình tín hữu công giáo vì muốn lánh nạn chạy giặc nên đã tìm đường ra đảo Trà Cổ. Vì vậy, số tín hữu ngày càng đông, nhu cầu về tôn giáo ngày càng mở rộng. Chính điều này đòi hỏi nơi các Thày Cả phải đứng ra thành lập những họ đạo mới để công việc phụng thờ Chúa được trang nghiêm và quy củ hơn. Trong bối cảnh lịch sử như vậy giáo xứ Trà Cổ đã dần dần được hình thành.
Ban đầu Cha già Cấp đã chia xứ Trà Cổ thành 5 họ đạo: Trà Cổ, Lương, Trúc Sơn, La Phù, Xuân Ninh. Sau này giáo xứ Trà Cổ được mở rộng ra và hai họ đạo Tiên Yên và Hà Lai cũng xin gia nhập vào tổng cộng Trà Cổ có tới bảy họ đạo. Mặc dù địa hình xa xôi khó khăn nhưng các ngày lễ lớn như Phục sinh, Giáng Sinh…. cả bảy họ đạo đều quy tụ về giáo xứ để mừng lễ ngợi khen Thiên Chúa.
Đến năm 1880, nhà thờ đã bị hư hại dột nát nhiều. Mặt khác, số giáo dân lại không ngừng tăng lên việc mở mang đạo Chúa, xây dựng nhà thờ lớn hơn là một nhu cầu cấp thiết đới với giáo xứ. Chính vì vậy, Cha già lại tổ chức kêu gọi con dân đóng góp công góp của để xây cất một nhà thờ mới. Nguyên vật liệu được mua ở La Phù về, bên ngoài xây bằng gạch đất, cột nhà thờ bằng gỗ rừng làng, có chạm trổ hoa lá ở bên trong tạo cho nơi thờ phượng thêm phần trang nghiêm tôn kính. Sau khi xây dựng xong ngôi nhà thờ chính, nhà thờ này được giao cho họ đạo Xuân Ninh coi giữ cho đến năm di cư (1954).
Năm 1910, Cha Tràng Nghiêm (tên tây là Paro CP) thuộc dòng Đa Minh đến Trà Cổ. Khi tới nhà thờ, cha đã có ý định sẽ xây cất một nhà thờ mới khang trang theo lối kiến trúc của Tây phương. Để thực hiện ý định đó, Ngài phải chuẩn bị sửa soạn mọi thứ trong ba năm trời. Một mặt, phải lo liệu ngoại giao với chính quyền sở tại để mua gỗ lim trên rừng Miếu (núi Cuống Tiên Yên) và cho đóng bè đưa về. Công việc này không đơn giản nhưng nhờ quyết tâm của con dân tín hữu nên việc di chuyển đạt kết qủa tốt đẹp. Mặt khác, cha còn kêu gọi con dân toàn xứ đóng góp sức người, sức của để chuẩn bị cho một công trình to lớn quan trọng này.
Năm 1913, Cha Tràng Nghiêm ccho khởi công xây cất nhà thờ mới (gọi là nhà thờ chính còn tồn tại đến ngày nay). Tháng tám năm đó, nhà thờ mới được dựng lên trước sự chứng kiến và reo mừng của toàn con dân Trà Cổ. Nhà thờ mới được xây dựng khang trang với 9 gian, chiều dài 130 thước (52 mét), rộng 30 thước (12 mét), cao 30 thươc (12 mét), lợp ngói Tầu, tường được xây bằng đá vôi.
Năm 1914, sau khi nhà thờ mới được xây dựng. Cha Tràng Nghiêm lại cho xây thêm một gian nữa thành tổng cộng là mười gian. Theo như lời kể lại của các vị cao niên, con dân Trà-Cổ phải đi nhặt vỏ sò vỏ hến; mang về đập nhuyễn ra trộn với đá vôi để xây đắp tường nhà thờ. Sau đó Cha cho làm một tòa chầu có bốn cột sơn son thiếp vàng do cụ trùm Bá Sinh (Nguyễn Khắc Kiêu) công đức cho nhà Chúa.
Năm 1916, Cha Tràng Nghiêm đổi xứ ra đi. Trong sáu năm trời coi xứ,Ngài đã bỏ ra rất nhiều công sức để hoàn thành sứ mạng của một chủ chiên được Chúa giao phó. Cũng năm đó, Cha Gracia Tràng Thiện được điều đến coi xứ Trà Cổ, tiếp tục quản lý và dẫn dắt con dân.
Năm 1918, Cha Gracia khởi công xây cất tháp chuông theo kiến trúc Tây phương (Đức) tháp cao 90 thước (36 mét) tính từ nền móng cho đến đầu Thánh Giá, công việc trọng đại này phải mất hai năm mới hoàn thành.
Giai đoạn 1924 – 1926, đưới sự dẫn dắt do ba cha: Gracia Thiện CP. Fernandez Xuyên và Đaminh. Lê Đình Kiểm đã cho sửa chửa nhà thờ và xây thêm hai bên hiên nhà thờ, toà chầu, bàn thờ chính sơn son thiếp vàng cùng với một cỗ kiệu con được mua từ xứ Kim Bích (Hải Dương) mang về
Năm 1928 cha Gioan Tuyển về nhận xứ Trà-Cổ, Ngài cho lập nhiều hội đoàn: Hội kèn, hội khấn dòng (còn giữ được đến ngày nay và đưa vào Nam). Sau đó Ngài mướn người lấy gạch từ bên núi tổ chim về để xây cất, tu sủa lại nhà thờ ở khu thượng.
Đến năm 1930, cha Franco Du OP. Đến nhận xứ. Lúc này nhà thờ đã bắt đầu xuống cấp. Ngài quyết định trùng tu lại ngôi thánh đường chính. Trước hết, Ngài cho tô lại vôi áo hai bên hiên nhà thờ, cho lát lại gạch bông toàn bộ lòng nền nhà thờ. Trên cung Thánh, Ngài cho thay đổi kính gương ngũ sắc ở các cửa sổ, mở rộng thêm gian cung Thánh. Sau đó, Ngài cho sửa lại bàn thờ, lát đá đường kiệu quanh nhà thờ và đo ăđa ùsỏi trắng lên sân cát, những đá sỏi này do thuyền lái buôn của con dân chơ ũvề. Trong lần trùng tu này có nhiều vị hảo tâm, ân nhân đã giúp đở công của để việc trùng tu đạt kết qủa tốt đẹp.
Từ năm 1931 – 1954, các cha xứ sau này về nhận xứ, tuy không thực hiện được những công việc xây cất lớn nhưng các Ngài cũng bỏ công sức và lòng nhiệt thành để cho ngôi thánh đường chính thêm phần khang trang, mỹ lệ hơn.
Năm 1965 là cái mốc di dân từ Đồng Hiệp xuống Suối Đĩa và Hố Nai rồi sau đó hình thành hai giáo xứ Trà-Cổ I và Trà-Cổ II. 108 năm kể từ ngày thành lập giáo xứ là năm 1857, giáo xứ Trà-Cổ đã có 20 đời cha xứ.
Nhà thờ bị hủy hoại do chiến tranh biên giới Việt-Trung năm 1979, khi quân Trung Quốc xâm lược Việt Nam. Nhưng đã được dân xứ quyên góp và tu sửa lại năm 1995, khôi phục lại vẻ đẹp ban đầu của nhà thờ. Nhà thờ có diện tích hơn 12.000 m2, hướng về phía Nam, được xây dựng theo lối kiến trúc Gothic với nhiều mái vòm nhọn, hướng lên bầu trời. Mặt tiền nhà thờ có tháp chuông cao vút, mái tôn nhọn, cửa sổ hình vòm. Tháp chuông là nơi treo quả chuông đồng hơn 80 năm tuổi. Bên trong nhà thờ có hoa văn điêu khắc trên gỗ tinh xảo, phản ánh nét văn hóa địa phương. Hai bên tường có 14 đàng thánh giá, kể lại cuộc đời của chúa Jesu. Nhà thờ còn giữ được một quả chuông đồng hơn 80 năm tuổi.
Sau này, nhà thờ bị xuống cấp do thời gian và ảnh hưởng của thời tiết khu vực miền Đông. Chính vì vậy, Cha xứ đương nhiệm Giuse Ngô Văn Vàng cùng cộng đoàn nơi đây đã thống nhất xây dựng ngôi thánh đường mới. Năm 2017, UBND tỉnh đã cho phép xây dựng lại nhà thờ theo nguyện vọng của các giáo dân và được hoàn thành vào 12/4/2023, sau gần 6 năm nỗ lực. Nhà thờ mới được xây dựng trên nền móng của ngôi thánh đường cũ, với hình dạng hình chữ thập, chiều dài 68m, chiều rộng gian nguyện 16m, chiều rộng mỗi hành lang 2m, chiều rộng mỗi cánh hình chữ thập 24m, chiều cao tháp chuông 46,5m. Tổng diện tích trong lòng nhà thờ là 800m2, có thể chứa được 1000 người tham dự thánh lễ.
Bài viết liên quan
Lễ hội Hokkaido tại Hạ Long
Từ 17 đến 19/11, Quảng Ninh sẽ tổ chức Lễ hội Hokkaido tại Hạ Long...
Th11
Thác Bò Đái
Giới thiệu về thác Bò Đái Thác Bò Đái hay còn gọi là thác Phiêu...
Th10
Đền Cặp Tiên
Đền Cặp Tiên là một di tích lịch sử quốc gia đặc biệt nằm trên...
Th9
Văn hóa Soi Nhụ
Văn hóa Soi Nhụ là một chủ đề thú vị và quan trọng trong nghiên...
Th8
Ngăn sông cấm chợ tại Vịnh Hạ Long và Vịnh Lan Hạ
Vịnh Hạ Long là một di sản thiên nhiên thế giới nổi tiếng của Việt...
Th8
Hồ Ba Hầm: Điểm du lịch tuyệt vời ít ai biết
Hồ Ba Hầm ở đâu? Hồ Ba Hầm là một địa điểm du lịch nổi...
Th8